Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, đồng tiền Việt Nam đã có nhiều lần thay đổi. Ngoài giá trị tự thân, đồng tiền còn là vật chứng phản ánh sinh động tình hình đất nước qua các thời kỳ lịch sử.
Từ khi xuất hiện đến năm 1945, việc đúc, phát hành đồng tiền là bằng chứng về tình hình đất nước, sự hưng vong của các triều đại, của từng vị vua.

Sau thời kỳ phong kiến, trong các năm 1948-1950, để tạo tiền mệnh giá nhỏ và sử dụng tại các chiến khu, Quốc hội và Chính phủ đã thống nhất ra các sắc lệnh phát hành thêm “giấy bạc Việt Nam” mệnh giá 2 hào, 5 hào và 200 đồng.
Nội dung in trên các tờ giấy bạc Việt Nam tập trung vào chủ đề sản xuất và chiến đấu, với các hình tượng quen thuộc là công nhân, nông dân và vệ quốc quân, và các thành ngữ dân vận, như: “Thực túc binh cường”, “ăn no đánh thắng”, “tay búa tay súng”, “tay cày tay súng”, “bảo vệ mùa màng”, “tích cực chuẩn bị tổng phản công”…
Thời kỳ này, hình ảnh vệ quốc quân in trên các tờ giấy bạc được người dân gọi là bộ đội Cụ Hồ và tờ giấy bạc Việt Nam được gọi là “giấy bạc Cụ Hồ” như một cách hướng về kháng chiến, hướng về Đảng và Bác Hồ.
Dấu mốc lịch sử đối với đồng tiền Việt Nam là ngày 6-5-1951, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 15/SL thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam. Ngân hàng Quốc gia được giao các nhiệm vụ phát hành giấy bạc ngân hàng, điều hòa lưu thông tiền tệ, quản lý ngân quỹ quốc gia, quản lý ngoại tệ, quản lý kim dụng bằng các thể lệ hành chính và đấu tranh tiền tệ với địch.
Từ thời điểm này, lưu thông tiền tệ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã chuyển từ chế độ tiền tệ quốc khố do Bộ Tài chính phụ trách sang chế độ tiền tệ tín dụng do Ngân hàng Quốc gia Việt Nam đảm nhiệm.
Đồng tiền tài chính đã được thay thế bằng giấy bạc ngân hàng với đơn vị tiền tệ là đồng. Ngân hàng Quốc gia Việt Nam là cơ quan nhà nước quản lý phát hành và tổ chức điều hòa lưu thông tiền tệ. Hai năm sau đó, khi đã hoàn thành các đợt phát hành tiền mới và đổi từ chế độ tiền tệ quốc khố sang chế độ tiền tệ tín dụng, với Sắc lệnh số 162/SL (ngày 20-5-1953) giấy bạc Việt Nam chính thức mang tên tiền Đồng và trở thành đơn vị tiền tệ duy nhất sử dụng trong toàn quốc (trừ Nam bộ).

Cũng theo ghi chép lịch sử, trong các năm 1947-1953, cuộc đấu tranh tiền tệ giữa Việt Nam với thực dân Pháp diễn ra gay cấn và không kém phần quyết liệt so với chiến sự ở các chiến khu. Thời kỳ này, khi thực dân Pháp hủy tờ bạc 100 đồng Đông Dương, Chính phủ Việt Nam đã linh hoạt đối phó bằng các giải pháp mềm dẻo, tiếp đó là đúc tiền “đồng Việt” bằng vàng thật với Sắc lệnh số 199/SL (ngày 8-7-1948) để nâng cao giá trị và uy tín của đồng tiền.
Ở Trung bộ và Nam bộ, để hạn chế nạn in giả đồng bạc Việt Nam và sử dụng thống nhất các đồng tiền hợp pháp, Chính phủ đã vận dụng các biện pháp “Việt Nam hóa” tiền Đông Dương bằng cách đóng dấu lên các tờ tiền để sử dụng và phát hành các loại tín phiếu có giá trị tương đương với các khẩu hiệu cách mạng để tuyên truyền, dân vận. Thời kỳ này, các khẩu hiệu như: “toàn dân đoàn kết chống ngoại xâm”, “tích cực chuẩn bị tổng phản công”, “thi đua ái quốc”, “một nước Việt Nam độc lập, một chính phủ Hồ Chí Minh”… phổ biến trên các tờ tiền và tín phiếu do Chính phủ phát hành.

Hòa bình lập lại tại miền Bắc sau Hiệp định Genevè, tiền Đồng những năm 1954-1961 có những bước tiến vượt bậc về kỹ thuật in ấn, màu sắc, nội dung và giá trị. Nghị định số 171/CP (năm 1961) của Chính phủ thời kỳ này cũng đã cho phép Ngân hàng Quốc gia đổi tên thành Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và bắt đầu được in rộng rãi trên tất cả các tờ tiền mọi mệnh giá.
Sự lớn mạnh của kinh tế miền Bắc cùng với sự ổn định về giá trị và lòng tin, tiền Đồng thời kỳ này gần như đã thống nhất hình thức in ấn, phát hành các loại mệnh giá (cả tiền giấy và tiền xu) với các hình ảnh Quốc huy, chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh và các nội dung xây dựng đất nước, phong cảnh miền Bắc.
Cùng với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, trong suốt hơn 20 năm (1951-1975) kể từ khi Ngân hàng Quốc gia Việt Nam ra đời, đồng tiền Việt Nam cũng đã có một hành trình đấu tranh đầy vinh quang và thử thách.
Ngân hàng Quốc gia Việt Nam (sau này là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam) đã thu đổi tiền cũ và 6 lần phát hành tiền mới. Trong đó, cuộc đổi tiền tháng 9-1975 đã loại bỏ đồng tiền của chế độ cũ ra khỏi đời sống kinh tế - xã hội ở miền Nam.
Từ tháng 7-1976, hệ thống ngân hàng hai miền Nam - Bắc đã được hợp nhất thành hệ thống Ngân hàng Nhà nước của nước Việt Nam thống nhất. Nhưng mỗi miền vẫn lưu hành một đồng tiền riêng, trên mỗi miền có một mức giá cả, một phương tiện trao đổi và hạch toán riêng, gây khó khăn, phức tạp cho việc quản lý, kế hoạch hóa nền kinh tế và quản lý tài chính thống nhất; đặc biệt là khó khăn cho điều hòa lưu thông tiền tệ.
Do đó, ngày 1-4-1978, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 08/NQ-TW về việc phát hành tiền ngân hàng mới, thu hồi cả hai loại tiền ngân hàng cũ ở cả hai miền của đất nước, thống nhất tiền tệ trong nước. Ngày 25-4-1978, Quốc hội và Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra Quyết định về việc thống nhất tiền tệ trong cả nước, phát hành tiền ngân hàng mới, thu hồi tiền ngân hàng cũ ở miền Bắc và miền Nam.
Cùng ngày, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 88/CP quy định mức tiền mặt được đổi ngay khi thu đổi tiền trong cả nước. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ra quyết định về việc phát hành các loại giấy bạc và tiền kim khí mới, được lưu hành thống nhất trong cả nước.
Tiếp đó, ngày 2-5-1978, bắt đầu phát hành tiền mới, thu hồi tiền cũ trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Kể từ đó tiền đồng do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành chính thức trở thành đồng tiền hợp pháp duy nhất trên cả nước.

Lần phát hành tiền mới gần đây nhất là tháng 12-2003 khi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đưa vào lưu thông hệ thống tiền mới trên chất liệu polymer. Hệ thống tiền mới polymer được tiếp tục lưu thông trên thị trường cả nước từ đó đến nay, với nhiều mệnh giá; trong đó tờ có mệnh giá cao nhất là 500.000 đồng.
Nét độc đáo làm nên giá trị văn hóa đặc sắc của đồng tiền Việt Nam trong lịch sử đó là ở bất kỳ giai đoạn nào, các đồng tiền Việt Nam cũng đều in đậm dấu ấn tài khéo, độc đáo của những người thợ chế tác. Cùng đó, những tinh hóa, giá trị truyền thống của văn hóa Việt Nam, những di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh nổi tiếng của đất nước, những nét sinh hoạt đậm đà phong vị Việt Nam... luôn được thể hiện nổi bật, trở thành những điểm nhấn gây ấn tượng mạnh trên các đồng tiền.