Lần đầu tiên trong lịch sử khoan khoa học đại dương, các mẫu nước ngọt được thu thập trực tiếp từ dưới đáy biển, mở ra tiềm năng mới về nguồn nước ngầm ngoài khơi.
Một nhóm 41 nhà khoa học quốc tế đến từ 13 quốc gia vừa hoàn thành chuyến thám hiểm kéo dài 74 ngày ngoài khơi bờ biển New England, Hoa Kỳ, và phát hiện một hồ chứa nước ngọt khổng lồ nằm sâu dưới đáy biển Đại Tây Dương.
Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Khoan khoa học đại dương, các mẫu nước ngọt được thu thập trực tiếp từ dưới đáy biển, mở ra tiềm năng mới về nguồn nước ngầm ngoài khơi.

Tàu nâng Robert - trụ sở của đoàn thám hiểm khoan. (Nguồn: Erwan LeBer)
Các nhà khoa học đã khoan tại nhiều địa điểm trên thềm lục địa New England, thu được: 718 lõi trầm tích với tổng chiều dài hơn 871 mét; gần 50.000 lít nước từ nhiều độ sâu khác nhau. Độ mặn của nước thấp đến mức dưới 1 PSU (đơn vị độ mặn thực tế), gần như đạt chuẩn nước uống (nước biển trung bình là 35 PSU)
Giáo sư Rebecca Robinson từ Đại học Rhode Island chia sẻ: “Độ tươi của nước khiến tôi ngạc nhiên: các thông số của nó gần giống với nước máy của chúng tôi”.

Bản đồ vị trí các điểm khoan dưới đáy biển ngoài khơi Nantucket. (Nguồn: Erwan LeBer)
Theo giáo sư Brandon Dugan, lượng nước ngọt dưới đáy biển ở khu vực New England có thể đủ để cung cấp cho toàn bộ thành phố New York trong 800 năm. Điều này mở ra khả năng khai thác các hồ nước ngầm ngoài khơi như nguồn nước dự phòng trong tương lai, đặc biệt trong bối cảnh biến đổi khí hậu và khan hiếm nước ngọt.
Giáo sư Karen Johannesson từ Đại học Massachusetts Boston cho biết: “Tôi rất mong được tìm hiểu thêm về thời điểm các tầng nước ngầm này được nạp vào trầm tích và khí hậu trong quá khứ khi chúng xâm nhập vào các tầng chứa nước ngoài khơi”.

Lõi trầm tích thu được từ đáy biển Nantucket, nhằm xác định tuổi, độ mặn và nguồn gốc của hệ thống nước ngọt ngầm ngoài khơi. (Nguồn: Erwan LeBer)
Toàn bộ mẫu lõi và nước sẽ được phân tích tại Bremen Core Repository ở Đức vào đầu năm 2026. Các nhà khoa học sẽ nghiên cứu tuổi của nước bằng đồng vị carbon-14 và heli-4, cũng như phân tích chu trình nitơ để hiểu rõ nguồn gốc và lịch sử địa chất của hệ thống nước ngầm này.
Sau thời gian bảo lưu một năm, toàn bộ dữ liệu sẽ được công bố rộng rãi cho cộng đồng khoa học toàn cầu.