Thế giới đã dịch chuyển từ thời VUCA (biến động - bất định - phức tạp - mơ hồ) sang thời BANI (mong manh - lo lắng - phi tuyến tính - khó lý giải). Trong bối cảnh ấy, Việt Nam đang đứng trước cơ hội để tái định hình chiến lược phát triển, củng cố năng lực cạnh tranh và vươn lên bằng một mô hình kinh tế xanh - số - tuần hoàn.
- Chuyển đổi xanh - câu chuyện của các “ông lớn” ngành thép, xi măng
- Xây dựng thương hiệu du lịch xanh mang tính toàn cầu
Kỷ nguyên BANI và “gọng kìm” chuyển đổi xanh
Theo ông Đinh Hồng Kỳ, Chủ tịch Hội Doanh nghiệp Xanh TP. Hồ Chí Minh (HGBA) và đồng thời là Phó chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp TP. Hồ Chí Minh (HUBA), nếu như ở kỷ nguyên VUCA, các biến động vẫn có thể dự báo, phân tích và quản trị bằng những công cụ truyền thống, thì ở thời kỳ BANI, thế giới trở nên mong manh hơn bao giờ hết. Các cú sốc lan truyền theo hiệu ứng domino, khó dự đoán và dễ gây đổ vỡ dây chuyền. Đại dịch Covid-19, những xung đột địa chính trị, làn sóng bảo hộ thương mại, biến đổi khí hậu ngày càng khốc liệt, cùng sự bùng nổ của trí tuệ nhân tạo (AI) toàn cầu đã tạo nên một bức tranh kinh tế - xã hội phức hợp, nơi mọi rủi ro chồng chéo và cộng hưởng. Điều này buộc doanh nghiệp Việt Nam phải chuyển đổi nhanh hơn và mạnh mẽ hơn, nếu không sẽ bị loại khỏi chuỗi giá trị toàn cầu.
Áp lực chuyển đổi xanh hiện nay đến từ nhiều phía cùng lúc. Các hàng rào kỹ thuật và thương mại mới liên tục được siết chặt và việc phải đáp ứng của nhà sản xuất trở thành “tấm vé” bắt buộc để hàng hóa vào thị trường xuất khẩu.
Bên cạnh đó, sự đứt gãy chuỗi cung ứng năng lượng và nguyên liệu, giá năng lượng biến động mạnh và rủi ro địa chính trị leo thang đã làm thay đổi cấu trúc thị trường liên tục. Chưa kể, áp lực minh bạch và chống “rửa xanh” ngày càng gia tăng khi các chuẩn mực ESG, kiểm toán dữ liệu carbon và cơ chế kiểm chứng độc lập trở thành yêu cầu bắt buộc từ nhà đầu tư và cơ quan quản lý.
Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp Việt vẫn thiếu chuẩn bị căn cơ để ứng phó. Vốn dài hạn dành cho công nghệ xanh còn hạn chế, nguồn nhân lực vận hành ESG và kiểm kê khí nhà kính chưa đủ, hệ thống dữ liệu chuẩn để đo lường - xác minh chưa hoàn chỉnh và các liên minh chia sẻ chi phí - chuẩn hóa giải pháp còn manh mún. “Bài toán đặt ra vì thế không chỉ là “đổi thiết bị” mà là tái cấu trúc toàn diện mô hình kinh doanh theo logic xanh - số - tuần hoàn”, ông Kỳ nhấn mạnh.
![]() |
Việt Nam đang đứng trước cơ hội để tái định hình chiến lược phát triển |
Trụ cột chiến lược và chuyển đổi kép xanh - số
Để thích ứng yêu cầu mới, HGBA đã xây dựng sáu trụ cột chuyển đổi xanh làm “kim chỉ nam” cho doanh nghiệp. Năng lượng và lưới điện thông minh được coi là nền tảng, với ưu tiên phát triển điện gió ngoài khơi, điện mặt trời mái nhà, lưu trữ năng lượng và cơ chế mua bán điện trực tiếp, đồng thời số hóa hạ tầng lưới để tận dụng nguồn xanh phân tán và mở ra cơ hội hydrogen.
Ngành xây dựng - hạ tầng, vốn chiếm tới 40% phát thải toàn cầu, được định hướng chuẩn hóa vật liệu, áp dụng tiêu chuẩn công trình xanh và thúc đẩy kinh tế tuần hoàn. Với nông nghiệp và thực phẩm hướng tới canh tác tái sinh, truy xuất nguồn gốc minh bạch để vừa giảm phát thải vừa tăng giá trị. Giao thông - logistics chuyển dần sang phương tiện điện hóa, đầu tư hạ tầng sạc, ứng dụng công nghệ số tối ưu vận hành. Cùng lúc, tiêu dùng tuần hoàn và công nghiệp tái chế được thúc đẩy thông qua thiết kế bao bì dễ tái chế, tăng tỷ lệ vật liệu tái chế và phát triển cụm tái chế khép kín.
Ông Đinh Hồng Kỳ nhấn mạnh chuyển đổi xanh chỉ hiệu quả khi gắn với chuyển đổi số, ứng dụng AI, IoT và blockchain để đo lường phát thải, tối ưu vận hành, minh bạch dữ liệu. Sáu trụ cột này chính là “bản đồ định hướng” giúp doanh nghiệp xây dựng lộ trình tái cấu trúc bài bản, nâng cao năng lực cạnh tranh và giảm rủi ro bị loại khỏi chuỗi cung ứng toàn cầu.
Doanh nghiệp xanh - hạt nhân kiến tạo thị trường
Thực tế cho thấy nhiều doanh nghiệp đã bắt đầu hành động. Họ đầu tư công nghệ mới, số hóa dây chuyền sản xuất, áp dụng chuẩn quản trị năng lượng quốc tế để tiết kiệm chi phí. Một số doanh nghiệp tiên phong áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn, tái chế và tái sử dụng nguyên liệu, giảm phát thải ngay từ khâu thiết kế sản phẩm. Các liên minh xanh ra đời, kết nối doanh nghiệp với viện nghiên cứu, cơ quan quản lý và tổ chức quốc tế nhằm chia sẻ dữ liệu, chuẩn hóa tiêu chuẩn và giảm chi phí. Đặc biệt, nhiều doanh nghiệp đã tích hợp ESG vào chiến lược phát triển, công bố minh bạch dữ liệu carbon theo các khung báo cáo quốc tế để dễ dàng tiếp cận vốn xanh với chi phí thấp hơn.
Những hạt nhân tiên phong này xuất hiện ở nhiều lĩnh vực như bất động sản xanh, vật liệu xây dựng thân thiện môi trường, tái chế nhựa, năng lượng tái tạo và quản trị năng lượng, nông nghiệp bền vững, bao bì tuần hoàn và nội thất sạch…
Ông Đinh Hồng Kỳ nhấn mạnh, doanh nghiệp cần chuyển nhận thức thành hành động quyết liệt, từ các nỗ lực đơn lẻ sang hợp tác liên minh, từ CSR mang tính thiện nguyện sang ESG với chuẩn mực quản trị rõ ràng và từ thí điểm nhỏ lẻ sang triển khai đại trà. Đồng thời, phải đầu tư mạnh vào đào tạo nhân lực ESG, phát triển đội ngũ chuyên trách quản trị chuỗi cung ứng xanh, xây dựng năng lực kiểm kê - báo cáo khí nhà kính và nâng cao khả năng dự báo rủi ro phi tuyến để tăng tính kiên cường.
Các lãnh đạo doanh nghiệp trong kỷ nguyên BANI cần đóng vai trò kiến trúc sư chuyển đổi, hoạch định linh hoạt, kết nối công - tư - quốc tế, truyền cảm hứng xanh vào toàn bộ tổ chức. Các mục tiêu môi trường phải được thị trường hóa thông qua tín chỉ carbon, mua sắm công xanh, định giá carbon nội bộ để chi phí phát thải trở thành một yếu tố trong quyết định đầu tư.
Nếu những điều kiện này được đáp ứng, doanh nghiệp Việt không chỉ “xanh để thích ứng” mà còn “xanh để dẫn đầu”, tạo lợi thế cạnh tranh bền vững, tiếp cận thị trường cao cấp, hạ chi phí vốn, nâng cao hiệu suất vận hành và gia tăng khả năng chống chịu trước những cú sốc toàn cầu. Đây là thời điểm để doanh nghiệp Việt biến chiến lược xanh thành bản thiết kế kinh doanh mới, chủ động bước lên nấc thang giá trị cao hơn trong chuỗi cung ứng toàn cầu.