Giới khoa học cáo buộc nhiệt điện than gây ra ô nhiễm bụi mịn tại Hà Nội. Các nhà máy nhiệt điện tuyên bố điều ngược lại.
"Ước tính khoảng 20% lượng PM2.5 trong không khí Hà Nội là từ các nhà máy nhiệt điện lớn và các khu công nghiệp quanh Hà Nội", Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam và Viện Phân tích Hệ thống Ứng dụng Quốc tế kết luận trong Dự báo chất lượng không khí ở Hà Nội và khu vực phía Bắc, tháng 10/2018.
Nhà máy nhiệt điện than Thái Bình. Ảnh: Gia Chính. |
Khu vực phía Bắc có 20 nhà máy nhiệt điện, trong đó nhà máy nhiệt điện Na Dương (Lạng Sơn) có công suất nhỏ nhất 110 MW, nhà máy lớn nhất là 2280 MW ở Mông Dương (Quảng Ninh). Các nhà máy nhiệt điện có công suất lớn tập trung chủ yếu ở phía đông (Hải Phòng và Quảng Ninh).
Ông Trần Đình Sính, Phó giám đốc Trung tâm phát triển sáng tạo Xanh (GreenID) ước tính một nhà máy với hai tổ máy 1200 MW sử dụng sau hệ thống lọc bụi tĩnh điện hiện đại nhất với hiệu suất 99,75% thì 0,25% còn lại vẫn tương đương với 8 tấn bụi thải ra môi trường, trong đó lượng bụi PM 2.5 khoảng hơn 2,3 tấn.
"Giả sử không khí hoàn toàn trong sạch, không có hạt bụi nào, thì lượng bụi 2,3 tấn sẽ làm ô nhiễm trong bán kính khoảng 65 km, chiều cao khoảng 200 m. Như vậy tưởng rằng lọc 99,75% bụi là đã hết, thực tế vẫn có một lượng lớn bụi PM 2.5 bay ra ngoài", ông Sính phân tích. Ông cho rằng các nhà máy nhiệt điện than hoạt động dù đảm bảo quy chuẩn Việt Nam vẫn tiềm ẩn nguy cơ gây ô nhiễm không khí. "Trong một vùng, ngoài nhiệt điện than còn các nhà máy xi măng, hóa dầu khác cũng xả khí thải. Một nhà máy xả thải theo đúng quy chuẩn có thể đảm bảo nhưng nhiều nhà máy thì sẽ vượt quá khả năng chịu đựng môi trường".
Theo ông Sính, ô nhiễm không khí ở Hà Nội trong những ngày nghiêm trọng nhất có đóng góp của các khu công nghiệp phía đông (Hải Phòng, Quảng Ninh) trong đó chủ yếu là các nhà máy điện chạy than. Vị chuyên gia cũng nhận định, ô nhiễm bụi mịn là vấn đề không biên giới, bởi khả năng lan truyền xa của nó.
Tuy nhiên, các nhà máy nhiệt điện than lại có bằng chứng để chứng minh điều ngược lại. "Sau khi qua ống khói cao 215 m ra ngoài, hệ thống quan trắc không khí luôn cho thấy, khí thải của nhà máy không gây ảnh hưởng ngoài bán kính 10 km tính từ chân ống khói", ông Tô Văn Tiệp, phó phòng kỹ thuật công ty nhiệt điện Thái Bình nói về ảnh hưởng của khói nhiệt điện than tới không khí Hà Nội.
Nhà máy nhiệt điện Thái Bình với hai tổ máy công suất 300 MW dành khoảng 70 triệu USD cho hệ thống xử lý khí thải. Hệ thống gồm bộ lọc bụi tĩnh điện ESP, có hiệu suất lọc bỏ bụi than 99,98% và bộ FGD, đạt hiệu suất khử 98,9% khí lưu huỳnh. Nồng độ bụi sau xử lý chỉ khoảng 20 mg/Nm3, bằng 1/10 giới hạn cho phép của QCVN. Tương tự nồng độ SOx khi ra ngoài là 170 mg/Nm3, bằng 1/3 mức cho phép.
Các chỉ số quan trắc không khí của nhà máy nhiệt điện Thái Bình được tự động gửi về sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Thái Bình và hiển thị trên màn hình điện tử trước cổng nhà máy để công khai với cư dân địa phương.
Lượng nhiệt điện than sản xuất theo từng giai đoạn. Đồ hoạ: Tiến Thành. |
Cách đó hơn 200 km về hướng nam, nhà máy nhiệt điện Nghi Sơn sở hữu những công nghệ xử lý khí thải tương tự, với mức đầu tư khoảng hơn 1,2 tỷ USD. Hình ảnh những xe tải chở tro xỉ bụi bay mù mịt ra đổ tại các bãi tập kết không tồn tại. Toàn bộ tro xỉ được trộn với nước, theo hệ thống bơm áp lực và đường ống khép kín xuống thẳng bãi tập kết. Tro xỉ được duy trì luôn nằm dưới mặt nước trong thời gian đợi đơn vị thu mua về làm gạch không nung.
Ông Lê Ngọc Minh, trưởng phòng An toàn môi trường khẳng định, "với hệ thống xử lý khí thải của nhà máy nhiệt điện Nghi Sơn, bán kính ảnh hưởng tới môi trường là không quá 5 km".
Trong khi các nhà hoạt động môi trường và các nhà kinh tế vẫn chưa tìm được tiếng nói đồng thuận về phát triển nhiệt điện than, cuộc khủng hoảng năng lượng ở Việt Nam đang ngày càng trở nên rõ rệt.
"Năm 2023, Việt Nam sẽ thiếu khoảng 12 tỷ Kwh điện", báo cáo của Bộ trưởng Công Thương Trần Tuấn Anh gửi các đại biểu Quốc hội trước phiên chất vấn ngày 6/11, nêu. Trong bối cảnh khai thác thủy điện khó khăn, ngành điện Việt Nam phụ thuộc nhiều hơn vào các nhà máy nhiệt điện than. Cơ cấu hệ thống điện quốc gia cho thấy, tỷ trọng của nhiệt điện than đã tăng từ 17% năm 2012 lên 35% năm 2015. Quy hoạch điện VII điều chỉnh của Chính phủ đến năm 2030 xác định hơn 50% điện tiêu thụ của Việt Nam sẽ đến từ nhiệt điện than.
Nhiệt điện than vẫn là nguồn cung cấp điện quan trọng khắp thế giới. Trung Quốc, nước có mức phát thải CO2 cao nhất thế giới, gần đây được nhắc đến với nỗ lực đóng cửa nhiều nhà máy nhiệt điện than. năm 2017 nhiệt điện than vẫn chiếm 67% tổng sản lượng điện Trung Quốc. Con số này ở Australia, Đức và Mỹ lần lượt là 61%, 37% và 30%.