Năm 2024, kinh tế Việt Nam đã có nhiều chỉ dấu tích cực: Tăng trưởng cao, lạm phát kiểm soát, thương mại - đầu tư phục hồi. Đây là nền tảng quan trọng nhưng chưa đủ. “Điểm nghẽn của các điểm nghẽn” vẫn là thể chế theo cách nói của các tổ chức quốc tế khi điểm lại chặng đường cải cách gần đây.

xuat-nhap-khau.jpg
Xuất, nhập khẩu hàng hóa 7 tháng đầu năm đạt 514,7 tỷ USD. Ảnh: Internet

Thành tựu nổi bật - những con số biết nói

80 năm qua, kinh tế Việt Nam đã trải qua nhiều giai đoạn. Giai đoạn hình thành (1945 - 1985) ưu tiên huy động nguồn lực cho độc lập, thống nhất; cơ chế kế hoạch hóa tập trung, khan hiếm hàng hóa, năng suất thấp. Bước ngoặt Đổi mới (1986 - 2006) thừa nhận kinh tế nhiều thành phần, tự do hóa lưu thông, bình ổn vĩ mô; đảo chiều tăng trưởng và giảm nghèo sâu rộng. Giai đoạn hội nhập sâu rộng (2007 - 2019), Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới, ký và thực thi loạt hiệp định thương mại tự do, hình thành chuỗi sản xuất - xuất khẩu quy mô lớn. Thập niên chuyển đổi kép (từ năm 2020 đến nay), kinh tế chịu thử thách bởi dịch bệnh, biến đổi khí hậu và căng thẳng thương mại; đồng thời thúc đẩy chuyển đổi số - năng lượng và cải cách thể chế cấp Chính phủ, kể cả phương án tinh gọn bộ máy.

Đặc biệt, tăng trưởng phục hồi mạnh năm 2024, với tổng sản phẩm trong nước tăng 7,09%, vượt dự báo của các định chế quốc tế; quy mô GDP ước 476,3 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người khoảng 4.700 USD. Lạm phát cơ bản 2,71% - dưới ngưỡng Quốc hội đề ra, tạo dư địa cho chính sách vĩ mô linh hoạt. Thương mại đạt kỷ lục mới: Năm 2024, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 786,29 tỷ USD, xuất khẩu đạt 405,53 tỷ USD, nhập khẩu 380,76 tỷ USD, thặng dư 24,77 tỷ USD.

Với quy mô GDP nêu trên, độ mở thương mại xấp xỉ 165% GDP, phản ánh mức độ gắn kết sâu với chuỗi giá trị toàn cầu. Đầu tư trực tiếp nước ngoài bền bỉ giải ngân vốn FDI năm 2024 đạt kỷ lục 25,35 tỷ USD (tăng 9,4% so với 2023), cho thấy niềm tin nhà đầu tư với triển vọng trung - dài hạn của Việt Nam. Đô thị hóa và dịch chuyển cơ cấu tỉ lệ đô thị hóa đạt khoảng 44,3%, vừa tạo thị trường quy mô lớn cho dịch vụ - công nghiệp đô thị, vừa đặt ra yêu cầu quản trị đô thị hiện đại. Năng suất và chất lượng tăng lên, an sinh xã hội được cải thiện...

Nhìn thẳng vào những “điểm nghẽn”

Các chuyên gia và đối tác phát triển cảnh báo, tắc nghẽn thủ tục làm chậm giải ngân hỗ trợ phát triển chính thức và vốn đầu tư công trong giai đoạn 2021 -2023. Năm 2024, giải ngân kế hoạch đầu tư công chỉ đạt 72,9% kế hoạch, thấp hơn mục tiêu, kéo theo hiệu quả kích hoạt tổng cầu hạn chế. Năng suất - năng lực công nghệ còn khoảng cách, liên kết doanh nghiệp trong nước với khu vực đầu tư nước ngoài còn yếu. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm gần ¾ kim ngạch xuất khẩu, trong khi lan tỏa công nghệ - quản trị sang khu vực tư nhân nội địa còn hạn chế, đây là thách thức cho mục tiêu nâng giá trị gia tăng trong nước. Phát hành trái phiếu doanh nghiệp phần lớn do khối ngân hàng phát hành, cho thấy sự lệ thuộc vào tín dụng ngân hàng và nền tảng nhà đầu tư tổ chức còn mỏng. Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) của Liên minh châu Âu - đã bước vào giai đoạn chuyển tiếp và sẽ thu tiền từ 1-1-2026, tạo áp lực lớn cho các ngành xuất khẩu nếu không nâng chuẩn đo lường - báo cáo - thẩm tra phát thải, nhiều ngành (thép, xi măng, nhôm, phân bón...) có nguy cơ mất lợi thế cạnh tranh...

Cải cách thể chế - đi từ “đúng hướng” sang “đủ tầm”

Để bứt phá, cải cách thể chế cần đi từ “đúng hướng” sang “đủ tầm” với những trọng tâm:

Kinh doanh minh bạch, dễ dự đoán, hợp nhất và số hóa điều kiện kinh doanh, chuyển mạnh sang hậu kiểm dựa trên rủi ro, công khai dữ liệu xử lý hồ sơ thời gian thực.

Đầu tư công hiệu quả rút ngắn quy trình phê duyệt, áp dụng “hồ sơ một lần”, gắn trách nhiệm giải ngân theo quý với người đứng đầu; mở rộng đấu thầu điện tử để chấm dứt tình trạng chậm giải ngân.

Liên kết FDI - doanh nghiệp nội địa ưu đãi có điều kiện, gắn với chuyển giao công nghệ và phát triển chuỗi cung ứng trong nước; xây dựng trung tâm hỗ trợ nhà cung cấp nhằm tăng tỉ lệ nội địa hóa.

Thị trường vốn lành mạnh, trái phiếu bắt buộc xếp hạng tín nhiệm, giám sát dòng tiền sau phát hành; cổ phiếu chú trọng nhà đầu tư dài hạn, nâng chuẩn quản trị và bảo vệ cổ đông thiểu số.

Đổi mới sáng tạo - nâng năng suất, hoàn thiện cơ chế dữ liệu mở, gắn viện - trường - doanh nghiệp; phân bổ ngân sách theo kết quả, hướng tới tăng năng suất xấp xỉ 6,3%/năm.

Đáp ứng chuẩn xanh chuẩn bị cho CBAM (Cơ chế Điều chỉnh Biên giới Carbon của Liên minh châu Âu) bằng cơ sở dữ liệu vòng đời sản phẩm, tiêu chuẩn đo lường - báo cáo - thẩm tra; hoàn thiện sàn giao dịch carbon trong nước, kết nối với thị trường quốc tế.

Kỷ luật tài khóa, tinh gọn bộ máy, minh bạch chi tiêu công, mở rộng PPP theo cơ chế chia sẻ rủi ro; sắp xếp tổ chức hành chính tinh gọn, phân cấp gắn trách nhiệm và cơ chế thưởng - phạt minh bạch.

Với vai trò là Thủ đô, "đầu tàu" của cả nước, Hà Nội có thể thí điểm “hộ chiếu dữ liệu doanh nghiệp” dùng chung cho đăng ký kinh doanh, đất đai, thuế, hải quan; thí điểm không gian thử nghiệm chính sách (sandbox) cho tài chính xanh, tín chỉ carbon và chính quyền đô thị số, qua đó lan tỏa mô hình quản trị đô thị hiện đại cho cả nước.

Kinh tế Việt Nam đang thực sự đứng trước cơ hội mới. Song cơ hội chỉ chuyển hóa thành đột phá khi nút thắt thể chế được tháo gỡ, thực thi kỷ luật - kỷ cương, giảm chi phí tuân thủ, nâng năng suất, tăng cường liên kết FDI - doanh nghiệp nội địa, và kiến tạo năng lực đáp ứng chuẩn xanh - số toàn cầu.

Làm tốt gói giải pháp trên, Việt Nam có thể bước vào giai đoạn phát triển mới - nâng tầm quốc gia bằng năng suất, công nghệ và chuẩn mực quản trị hiện đại, hướng tới mục tiêu nước thu nhập cao vào giữa thế kỷ XXI.

PGS.TS Ngô Trí Long / HNMO