Nguyễn Quỳnh Lâm - nguyên Phó Tổng giám đốc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, nguyên Tổng Giám đốc Vietsovpetro; anh cũng được biết đến với vai trò Tổng Giám đốc Chi nhánh Tập đoàn Dầu khí Việt Nam - Công ty Điều hành Dầu khí Biển Đông (2009-2015) - đơn vị được Tập đoàn giao nhiệm vụ thực hiện Dự án Biển Đông 01. Dưới sự chỉ huy của “thuyền trưởng” Nguyễn Quỳnh Lâm, BIENDONG POC với số nhân sự ít ỏi đã làm nên kỳ tích Biển Đông. PetroTimes xin trích đăng lại loạt bài về Dự án Biển Đông 01 - Kỳ tích Biển Đông, để cùng nhìn lại một dấu ấn trong cuộc đời anh Nguyễn Quỳnh Lâm.

Trở lại một chút lịch sử của dự án Biển Đông 01.

Từ năm 1992, hãng dầu khí nổi tiếng thế giới BP của Anh đã phát hiện ra khí đốt ở đây. Suốt một thời gian dài, họ đã đổ vào công tác thăm dò, đánh giá trữ lượng ở Hải Thạch - Mộc Tinh rất nhiều tiền. Nhưng vì thấy việc khai thác khí đốt ở đây quá nguy hiểm bởi áp suất và nhiệt độ cao hiếm có, khiến việc khoan thăm dò sự cố xảy ra liên tục, thêm vào đó lại là những cuộc mặc cả có tính chính trị từ một quốc gia khác nên họ đã phải… “bỏ của chạy lấy người”.

Đến năm 2008, BP chính thức rút khỏi dự án sau khi tốn gần nửa tỉ đôla mà không được một mét khối khí nào.

Tháng 11-2008 và tháng 1-2009, BP và Conoco Phillips đã có thư thông báo cho Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (Petrovietnam) về việc rút khỏi khu vực này và chuyển giao toàn bộ quyền lợi cho Petrovietnam. Thủ tướng Chính phủ đã chấp thuận cho phép Petrovietnam được nhận quyền lợi theo Luật Dầu khí để tiếp tục triển khai công tác phát triển mỏ Hải Thạch - Mộc Tinh. Nhận lại toàn bộ tài liệu từ phía BP, lãnh đạo Petrovietnam, mà người đứng đầu lúc đó là Tổng Giám đốc Trần Ngọc Cảnh cùng HĐQT và Ban Tổng Giám đốc đã quyết tâm tiếp tục thực hiện dự án này.

Tất nhiên, cũng đã có không ít ý kiến chưa đồng tình, tập trung vào 2 lý do:

Thứ nhất, là sự quấy phá của Trung Quốc. Thời gian này, Trung Quốc tăng cường gây sức ép với ta ở ngay trên vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam. Không những đưa tàu chiến, máy bay đến uy hiếp, mà phía Trung Quốc còn đưa cả tàu đánh cá tràn xuống để gây mất trật tự trị an trên khu vực biển của ta.

Thứ hai, là điều kiện địa chất của mỏ Hải Thạch - Mộc Tinh cực kỳ phức tạp. Phức tạp đến nỗi không ít chuyên gia dầu khí nước ngoài có cảm tình với Việt Nam đã thẳng thắn khuyên lãnh đạo Tập đoàn không nên làm, bởi mức độ rủi ro là quá lớn. Trước đây, khi BP và Conoco Phillips khoan thăm dò ở đây đã nhiều lần gặp sự cố. Tuy chưa “cháy giàn, chết người”, nhưng để giải quyết những sự cố đó thì cũng tốn nhiều triệu đôla. Và bên cạnh đó, không thể không nói tới thị trường nhân lực ở Việt Nam và các nước lân cận đang có cạnh tranh gay gắt, do có nhiều dự án đang triển khai trong cùng một thời điểm. Lực lượng chuyên gia, cán bộ kỹ thuật trong ngành Dầu khí còn thiếu, đặc biệt là người Việt Nam có kinh nghiệm và tay nghề cao trong các ngành khoan, thiết kế, quản lý dự án… Cho nên có đủ nhân sự để thực hiện dự án là điều rất không đơn giản.

Nguyễn Quỳnh Lâm và kỳ tích Biển Đông 01
Giàn khai thác Hải Thạch

***

Giàn Hải Thạch - Mộc Tinh và giàn xử lý trung tâm được đặt ở nơi có mực nước sâu hơn 140m. Điều kiện địa chất ở mỏ Hải Thạch - Mộc Tinh, nơi cho những dòng khí dẫn lên giàn Xử lý Trung tâm PQP không những phức tạp nhất ở Việt Nam, mà còn là vào loại ít có trên thế giới. Từ trong lòng đất dưới đáy biển, với độ sâu hơn 4.000m, dòng khí gas được phun lên với áp suất cực kỳ cao 420-530 atmosphere và nhiệt độ khoảng 120-170 độ. Trên thế giới, những loại mỏ khí đốt có áp suất và nhiệt độ cao như thế này là khá hiếm và không phải công ty dầu khí nào cũng dám làm, bởi mức độ nguy hiểm và rủi ro quá cao.

Việc BP và ConocoPhillips rút khỏi dự án khiến kế hoạch khai thác khí của Tập đoàn bị ảnh hưởng. Theo tính toán, vào cuối năm 2013, nếu không có khí bổ sung sẽ dẫn đến khả năng các nhà máy điện chạy khí khu vực miền Đông Nam Bộ phải dùng dầu thay thế. Điều này làm cho giá điện sẽ phải đội lên cao. Các nhà máy này đã dùng nguồn khí từ một số mỏ nhưng cũng đã khai thác trên 10 năm nên sản lượng bị suy giảm. Và xa hơn nữa, việc thực hiện kế hoạch phát triển điện theo sơ đồ 6 có thể bị ảnh hưởng. Vì vậy, việc khai thác khí ở Hải Thạch - Mộc Tinh là nhằm đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia cho nhiều năm sau.

Với quyết tâm giữ vững chủ quyền biển đảo và đảm bảo an ninh năng lượng, Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (Petrovietnam) đã báo cáo Chính phủ, Bộ Chính trị và mọi người đều cháy bỏng một quyết tâm là đất của ta, biển của ta thì ta phải giữ, phải khai thác tài nguyên phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước.

Công ty Điều hành Dầu khí Biển Đông (BIENDONG POC) ra đời trong bối cảnh như vậy. Và ngay cái tên Dự án Biển Đông 01 cũng đã thể hiện quyết tâm giữ vững chủ quyền biển đảo của Petrovietnam. Tổng Giám đốc Đỗ Văn Hậu - khi đó là Phó Tổng Giám đốc - được giao trọng trách chỉ đạo trực tiếp BIENDONG POC và Dự án Biển Đông 01.

Để tập trung cao độ sức mạnh nội lực và có điều kiện chỉ đạo trực tiếp, lãnh đạo Tập đoàn quyết định BIENDONG POC là công ty của Tập đoàn, mà không nằm trong các đơn vị thăm dò, khai thác chủ lực, danh tiếng như PVEP, Vietsovpetro…

Như vậy là với cách làm này, Petrovietnam đóng hai vai: Vừa là người thực hiện dự án, vừa là người giám sát dự án.

Cách làm này ngay lập tức đã bị một số cơ quan hữu quan bày tỏ ý kiến không đồng tình. Nhưng rồi khi được giải thích một cách cặn kẽ, tường tận về sự phức tạp của dự án thì các cơ quan cũng nhất trí. Tập đoàn cũng đã mời một số công ty khai thác khí danh tiếng trên thế giới tham gia nhưng chẳng ai mặn mà, bởi họ thấy dự án này rủi ro quá lớn. Đặc biệt là vào thời điểm năm 2009, những thiết bị công nghệ để đảm bảo khai thác khí ở những nơi có điều kiện địa hình, địa chất đặc biệt như ở Hải Thạch - Mộc Tinh không sẵn.

Rất nhiều ý kiến đưa ra là nên liên doanh với các công ty lớn của nước ngoài làm.

Đúng là liên doanh với nước ngoài làm thì cũng có cái thuận là chia sẻ được rủi ro, giảm được sự chi phí đầu tư... Nhưng việc đàm phán cho ra đời một liên doanh thường rất lâu, có khi phải mất vài năm. Mà như vậy thì đến cuối năm 2017 chưa chắc đã có khí. Và dĩ nhiên, điều đó sẽ làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới an ninh năng lượng của đất nước. Cho nên phải tự làm. Còn trong quá trình triển khai, nếu có được đối tác phù hợp thì sẽ tính sau. Liên doanh với nước ngoài thì chắc chắn giá thành sẽ cực kỳ cao, hơn nữa, cũng rất không đơn giản bởi vì dù thế nào, họ cũng chỉ là người làm thuê… Cho nên, nếu gặp những khó khăn gì khác ngoài các vấn đề kỹ thuật thì họ sẽ bỏ ngay. Và có “Long Vương” mới biết chuyện gì sẽ xảy ra nếu các chuyên gia cứ đột ngột bỏ về?

Tự tin nhưng không duy ý chí.

Dũng cảm nhưng không liều lĩnh.

Khẩn trương nhưng không vội vã.

Bám tiến độ nhưng đảm bảo an toàn là tối thượng.

Tập thể lãnh đạo Petrovietnam đã lao vào thực hiện Dự án Biển Đông 01 với tất cả nội lực, trí tuệ ý chí của mình và theo phương châm hành xử đó.

Và đây là dự án lớn nhất của Petrovietnam do những người thợ dầu khí Việt Nam thiết kế, chế tạo, lắp đặt, vận hành.

Đây là sản phẩm thuần Việt, do người Việt làm chủ toàn bộ tất cả các khâu, còn chuyên gia nước ngoài chỉ là người được ta thuê làm từng phần công việc.

Từ vị trí là người đi làm thuê cho nước ngoài, rồi đến vị trí điều hành ngang nhau và đến Dự án Biển Đông 01 này, ta làm chủ - mà lại làm chủ một dự khó nhất, lớn nhất - thì mới thấy sự phát triển thần kỳ của ngành Dầu khí Việt Nam như thế nào.

Nguyễn Quỳnh Lâm và kỳ tích Biển Đông 01
Tổng giám đốc BIENDONG POC Nguyễn Quỳnh Lâm giới thiệu về giàn khai thác Hải Thạch với Chủ tịch TLĐLĐVN Đặng Ngọc Tùng (năm 2013).

***

Cho đến bây giờ, đã gần 4 năm trôi qua, nhưng Tổng Giám đốc Nguyễn Quỳnh Lâm vẫn nhớ như in vào một ngày đầu tháng 2-2009, anh được Tổng Giám đốc Petrovietnam Trần Ngọc Cảnh và anh Phùng Đình Thực, anh Đỗ Văn Hậu (khi đó là Phó Tổng Giám đốc) gọi lên để trao đổi về Dự án Biển Đông 01, đồng thời ngỏ ý muốn điều Lâm sang làm Tổng giám đốc BIENDONG POC.

Tình hình chung của dự án này thì Lâm chẳng lạ gì và anh cũng hiểu rất rõ cả “biển” khó khăn mà vì nó, những công ty sừng sỏ nhất thế giới như BP, Conoco Phillips cũng phải ra đi tay trắng. Nhưng trước quyết tâm của những người mà bấy lâu nay Lâm không chỉ coi các anh là lãnh đạo mà còn là những người anh, người thầy, Nguyễn Quỳnh Lâm đã nhận lời.

Tổng Giám đốc Trần Ngọc Cảnh, anh Phùng Đình Thực, anh Đỗ Văn Hậu thì chỉ cho Lâm có một quyền, ấy là được lựa chọn người cho dự án này. Có thể nói, đây là một quyết định rất táo bạo và thể hiện sự tin tưởng cao của lãnh đạo Tập đoàn đối với Lâm. Và cho đến bây giờ, khi mà dự án đã hoàn thành tới 99% công việc thì chưa có trường hợp nào Lâm đề xuất về nhân sự mà bị lãnh đạo từ chối.

Nguyễn Quỳnh Lâm được lãnh đạo Tập đoàn chọn lựa là bởi vì anh từng chỉ huy nhiều đơn vị mà công việc chính là thăm dò, khai thác và là thế hệ lãnh đạo trẻ của các đơn vị thành viên.

Đội ngũ lãnh đạo trẻ này bên cạnh được đào tạo cơ bản tại các trường dầu khí danh tiếng thì họ có một ưu thế mà các thế hệ cha anh chưa có điều kiện, ấy là được tiếp xúc với những công nghệ tiên tiến nhất của thế giới trong khoan, thăm dò, khai thác; được làm việc với các chuyên gia giỏi ở các liên doanh; giỏi ngoại ngữ. Họ còn có may mắn nữa là được truyền dạy nghề từ các cán bộ dầu khí thế hệ trước. Nguyễn Quỳnh Lâm cũng như nhiều lãnh đạo của các đơn vị chủ lực PVEP, PV Drilling, PTSC… bây giờ đều trưởng thành từ cơ sở và trước khi làm chỉ huy thì họ đều biết làm việc như một người thợ từ quét sơn, cạo gỉ, biết cách vặn một con bu-lông cho đúng, biết khuân vác những ống khoan…

Năm 2000, khi mới 34 tuổi, Lâm đã là Trưởng phòng Thăm dò của Tổng Công ty PVEP. Nếu nói PVEP là đơn vị chủ lực đảm nhiệm 1 trong 5 lĩnh vực cốt lõi của Petrovietnam thì Phòng Thăm dò là phòng chủ lực của PVEP. 36 tuổi, anh được đề bạt làm Tổng giám đốc Công ty Điều hành chung Trường Sơn (Trường Sơn JOC). Khi 40 tuổi, anh được đề bạt là Giám đốc Công ty Thăm dò Khai thác Dầu khí PVEP và sau đó là Trưởng ban Khai thác Dầu khí của Tập đoàn.

Mấy ngày sau cuộc gặp đó, Tổng Giám đốc Trần Ngọc Cảnh bay vào TP Hồ Chí Minh để trao Quyết định bổ nhiệm Nguyễn Quỳnh Lâm làm Tổng giám đốc BIENDONG POC.

Có 3 người nữa cũng được đưa về từ những ngày đầu tiên là Trần Việt Dũng, Phó ban Thương mại Thị trường Tập đoàn - làm Phó Tổng phụ trách Thương mại và Hợp đồng; Trần Hồng Nam, Phó phòng Khai thác Thăm dò của Liên doanh Cửu Long JOC - làm Phó Tổng phụ trách Kỹ thuật (nay là Tổng Giám đốc PVEP); và Phan Văn Thiện - Kế toán trưởng. Hồi ấy, ở Tập đoàn, người ta nói vui về nhóm 4 người này là nhóm “Tứ tử trình làng”.

Trần Hồng Nam là Tiến sĩ Dầu khí. Trước đó, anh là giảng viên khoa dầu khí của một trường đại học ở Australia. Đang là giáo viên, mọi chế độ lương bổng, đãi ngộ cao ngất ngưởng, vợ và con cũng ở với chồng, mọi thứ ổn định, bạn bè cũng muốn anh ở lại, nhưng Nam đã từ bỏ để trở về Việt Nam và vào PVEP, rồi được đưa sang Cửu Long JOC.

Ngay sau khi nhận quyết định, 4 người đến văn phòng BP nhận tài liệu về đọc, khai thác và lên phương án.

Phải mất hai tháng, đọc hàng chục ngàn trang tài liệu của BP để lại, Trần Hồng Nam mới thấy hết được bức tranh toàn cảnh khu mỏ mà BP đã vẽ ra là rất chân thực và những nỗi lo của BP trước đây là có lý. Về loại mỏ đặc biệt như thế này, khi Nam đi học và làm thầy giao, hầu như không có tài liệu gì phục vụ cho giảng dạy. Lục tìm các kho tư liệu của các tập đoàn dầu khí lớn trên thế giới cũng chẳng thu được gì đáng kể. Lý do không có tài liệu là rất đơn giản, vì mỏ này có nhiệt độ và áp suất quá cao, sự rủi ro khi khai thác là vô cùng lớn cho nên trên thế giới, nếu gặp loại mỏ này là họ để lại.

Nhận nhiệm vụ của lãnh đạo Tập đoàn giao cho, Nguyễn Quỳnh Lâm lo lắng đến mất ăn mất ngủ. Nhưng sau khi cân nhắc, anh thấy khả năng là hoàn toàn làm được, nhưng với điều kiện phải có thêm chuyên gia giỏi. Tổng Giám đốc Trần Ngọc Cảnh biết rất rõ điều đó nên đã “quyết” luôn cho cơ chế thu hút chuyên gia riêng. Dự án khởi động được một thời gian ngắn thì Tổng Giám đốc Trần Ngọc Cảnh được nghỉ theo chế độ và việc chỉ đạo giao Tổng Giám đốc Phùng Đình Thực. Ông là người tạo động lực cho cả guồng máy đang chạy hết công suất bằng cách tháo gỡ tất cả những rào cản của những chế độ, chính sách đã tồn tại từ lâu nay và không còn phù hợp với thực tế của dự án. Trực tiếp chỉ đạo dự án là Phó Tổng Giám đốc Đỗ Văn Hậu, Phó Tổng Giám đốc Petrovietnam Nguyễn Quốc Thập chỉ đạo thực hiện các hợp đồng kinh doanh. Tổng Giám đốc PVEP ngày ấy nay là Phó Tổng Giám đốc Petrovietnam Nguyễn Vũ Trường Sơn chỉ đạo về chuyên môn.

Lãnh đạo Tập đoàn cũng huy động vào đây những cán bộ, chuyên gia giỏi để giúp cho Ban Quản lý Dự án.

Chính vì vậy, chỉ trong một khoảng thời gian rất ngắn, đến tháng 6-2010 đã hoàn thành kế hoạch phát triển mỏ Hải Thạch - Mộc Tinh và được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

Trong ký ức của nhiều đồng chí lãnh đạo Tập đoàn, lãnh đạo các đơn vị BIENDONG POC, PTSC, PV Drilling, Vietsovpetro, PV EIC… họ vẫn nhớ như in những cuộc họp bàn giải pháp kỹ thuật kéo dài trắng đêm, những cuộc tranh cãi nảy lửa ngay trên bãi chế tạo ngoài cảng PTSC; rồi có những lúc đã đập bàn “ông ông, tôi tôi”… Nhưng tất cả đều chỉ vì một mục tiêu chung là đưa giàn Hải Thạch - Mộc Tinh vào khai thác đúng tiến độ và đảm bảo an toàn tuyệt đối. Anh Phùng Đình Thực, Chủ tịch Hội đồng Thành viên cũng nhiều lần cùng Tổng Giám đốc Đỗ Văn Hậu xuống giao ban tiến độ ngay tại công trường. Cả hai vị lãnh đạo cao nhất của Tập đoàn đều rất ghét lối nói chung chung. Tại các cuộc họp giao ban, các anh yêu cầu tổng giám đốc các đơn vị tham gia phải có mặt và thông tin phải cực kỳ cụ thể. Nếu là chậm tiến độ ở một khâu nào đó, thì phải “chỉ mặt đặt tên”: “Ai gây ra?” và phải trả lời những câu hỏi: “Tại sao? Vì sao? Như thế nào”.

Có một vấn đề nữa mà cho đến nay mới thấy rằng, quyết tâm của lãnh đạo Tập đoàn Dầu khí và các đơn vị là cực kỳ chính xác và có tầm nhìn chiến lược trong việc đào tạo, sử dụng đội ngũ cán bộ kỹ thuật có trình độ cao.

Trước đây, chế tạo và lắp đặt các giàn khoan, các trung tâm xử lý dầu, khí, chúng ta đều phải thuê chuyên gia nước ngoài. Chi phí cho việc thuê chuyên gia nước ngoài đắt gấp nhiều lần so với người Việt Nam. Điều trớ trêu là cùng một vị trí làm việc như nhau, trình độ ngang nhau, nếu thuê chuyên gia nước ngoài thì chi phí phải trả cao gấp hơn 10 lần so với người Việt. Từng làm việc nhiều với chuyên gia nước ngoài nên Nguyễn Quỳnh Lâm hiểu rất rõ thế mạnh cũng như hạn chế của họ. Chuyên gia nước ngoài có ưu điểm là cung cách làm việc rất chuyên nghiệp, cẩn trọng, họ thường có những giải pháp hiệu quả. Nhưng điểm không phù hợp với điều kiện của ta là họ sài rất sang theo những tiêu chuẩn cao cấp, họ áp chuẩn cao và nhất nhất cái gì cũng phải theo “chuẩn”, bất kể thứ “chuẩn” đó có phù hợp với điều kiện của ta hay không. Tuyển chọn chuyên gia cũng phải rất cẩn thận. Khi đọc hồ sơ, lý lịch của ai cũng “đẹp”, nhưng khi vào việc thì lại chưa chắc.

Nguyễn Quỳnh Lâm cũng hiểu rất rõ về trình độ của anh em ta. Ngoài tinh thần ham học hỏi, chịu khó, chịu khổ thì có một đặc điểm mà chuyên gia nước ngoài không bao giờ có được - ấy là sự đam mê, khát vọng chinh phục có trong mỗi người thợ Dầu khí Việt Nam.

“Khát vọng” - đúng là những người làm Dầu khí Việt Nam có một khát vọng cháy bỏng là tìm dầu làm giàu cho Tổ quốc. Chính khát vọng này đã trở thành động lực để cho họ vượt qua hết những khó khăn thách thức này đến khó khăn thách thức khác, dù là trên Biển Đông hay ở sa mạc Sahara, ở vùng cực Bắc nước Nga, vùng rừng hoang vu đầy bất ổn ở Venezuela hay vùng rừng rậm Amazon ở Peru… để làm nên thương hiệu Petrovietnam. Chỉ có những người trong nghề mới hiểu hết sự phức tạp, “rắc rối” của nghề thăm dò khai thác dầu khí.

Trên đời này có một nghề mà công việc không giờ nào giống giờ nào, không ngày nào giống ngày nào, không giếng khoan nào giống giếng khoan nào - đó chính là nghề thăm dò khai thác dầu khí. Vì thế, có người từng làm việc nhiều năm, kinh nghiệm được coi là “đầy mình”, nhưng khi bắt tay vào khoan một giếng mới thì vẫn có thể thất bại thảm hại như thường. Như BP, TOTAL và số tập đoàn danh tiếng trên thế giới khác từng thăm dò khai thác ở Việt Nam, nếu cộng số tiền mà họ đã “đổ xuống Biển Đông” để rồi không moi lên được 1 lít dầu nào có lẽ phải là cả tỉ đôla. Như BP chẳng hạn, 16 năm trời ròng rã họ thăm dò khu Hải Thạch - Mộc Tinh, ném vào “hai vì sao dưới đáy biển” này cả gần nửa tỉ đôla, nhưng cuối cùng cũng đành phải “chia tay hoàng hôn”. Rủi ro trong thăm dò khai thác dầu khí là thế? (không hiểu nếu như Tập đoàn Dầu khí Việt Nam bị mất vài chục triệu đôla cho một dự án nào đó thì hậu quả sẽ ra sao?). Chính vì rủi ro trong thăm dò khai thác dầu khí quá lớn, cho nên trên thế giới, các tập đoàn, công ty khai thác dầu khí thường phải liên doanh với nhau. Ngoài việc liên doanh để tận dụng thế mạnh công nghệ, kinh nghiệm điều hành của nhau thì còn có một lý do nữa, ấy là chia sẻ rủi ro. Đầu tư vào một mỏ tốn hàng trăm triệu đôla, nhỡ không hút được dầu thì chia tiền bị mất ra, cũng đỡ… xót ruột.

Chỉ trong một thời gian ngắn, BIENDONG POC đã mời được những chuyên gia giỏi về giúp sức.

Một trường hợp rất đáng ghi nhận là Lê Trần Minh Trí, nguyên là Trưởng phòng Khoan của BIENDONG POC (nay là Phó Tổng giám đốc Công ty điều hành Dầu khí Phú Quốc). Hồi ấy, anh Trí đang đi làm cho một công ty dầu khí của Nhật tại Malaysia. Nhưng khi Nguyễn Quỳnh Lâm mời, anh bỏ mức lương cao ngất ngưởng để về làm cho Dự án Biển Đông và dĩ nhiên, ở đây, dù đã được Tập đoàn cho phép chi thêm vào tiền lương một khoản gọi là “thu hút nhân tài” nhưng mức thu nhập hằng tháng của anh vẫn thấp hơn rất nhiều lần so với nơi cũ.

Tôi gặp Lê Trần Minh Trí và rất ngạc nhiên trước vẻ thư sinh của anh. Trí học Khoa Địa chất Dầu khí của Trường ĐH Bách khoa TP Hồ Chí Minh. Cuối năm 2001, anh ra trường và về làm cho PV Drilling. Cuối năm 2005, anh tự thi tuyển và được một liên doanh Việt - Nhật mời vào làm. Chỉ trong một thời gian ngắn, lãnh đạo liên doanh này phát hiện thấy khả năng của Trí, cũng như tinh thần ham học hỏi và họ giao ngay cho anh trọng trách sang làm việc tại một giàn khoan ở Malaysia, với mức lương 12 ngàn đôla/tháng (không kể chi phí đi lại, ăn ở, bảo hiểm). Đang “ngon lành” như vậy, nhưng khi gặp Tổng Giám đốc Nguyễn Quỳnh Lâm, nói chuyện với nhau được dăm phút, Trí đã cảm thấy hình như giữa hai người có… duyên làm việc với nhau. Thế là Trí xin thôi làm ở công ty của Malaysia kia. Trí nói rất thật với tôi rằng, sở dĩ anh về BIENDONG POC là vì về đây làm cũng coi như về “nhà”, được làm việc bằng tất cả khả năng, được đóng góp cho ngành, được thử sức mình ở dự án đặc biệt phức tạp… Mà tất cả những cái đó không thể dùng tiền mà đo đếm được.

Rồi như ông Mike Nguyễn - Việt kiều Mỹ đang làm cho BP, lương tháng nhiều chục ngàn đôla, nhưng khi nghe Nguyễn Quỳnh Lâm nói về những khó khăn tại mỏ Hải Thạch - Mộc Tinh thì đã bỏ về đầu quân ngay cho BIENDONG POC.

Vì sao họ lại từ bỏ một vị trí ổn định, lương cao, bổng hậu để về làm cho một dự án mà đầy thách thức, tiềm ẩn quá nhiều rủi ro và chế độ đãi ngộ thì chắc chắn thua xa nơi cũ? Giải thích điều này chỉ có một lý do - ấy là họ mang trong mình ý chí, khát vọng chinh phục những nơi khó khăn và họ tin ở, tin ở Tập đoàn Dầu khí Việt Nam - một nơi mà tất cả những người có tài đều được trọng dụng.

Ngay từ đầu, Nguyễn Quỳnh Lâm đã xây dựng một kế hoạch có tính chiến lược về tuyển dụng, đào tạo đội ngũ quản lý và kỹ thuật người Việt Nam.

Anh đã xây dựng mô hình công ty và bộ máy quản lý dự án với nòng cốt là cán bộ, nhân viên người Việt, mạnh dạn tạo điều kiện cho những nhân sự trẻ người Việt, luôn luôn ưu tiên tuyển dụng người Việt Nam. Ở các vị trí quan trọng mà lúc đầu chưa thay thế được bằng người Việt Nam thì có ngay kế hoạch kèm cặp của chuyên gia cho đội ngũ chuyên viên Việt Nam nhằm tiếp quản, tận dụng, tích lũy tối đa kinh nghiệm, kiến thức của chuyên gia; chuẩn bị cho việc kế thừa thông qua công việc, chuyên môn, quy trình kỹ thuật và kinh nghiệm xử lý các vấn đề kỹ thuật khó. Đây chính tiền đề cho việc xây dựng hệ thống quản trị tri thức về sau... Bên cạnh đó, Nguyễn Quỳnh Lâm cũng rất chú trọng tuyển dụng những sinh viên từ khối kỹ thuật của các trường đại học, sau đó kết hợp giữa đào tạo tập trung và đào tạo kèm cặp trong công việc. Hiện nay, một số đơn vị trong tập đoàn như Vietsovpetro, PV Drilling, PVEP, PTSC… cũng đã xây dựng được hệ thống quản trị tri thức.

Vào thời điểm 2010-2011, những người thợ dầu khí ở Hải Thạch - Mộc Tinh luôn luôn phải đối phó với căng thẳng. Nào là tàu bè quấy nhiễu, nào là những vấn đề kỹ thuật vấp phải. Ở dưới lòng đất hơn 4.000m, nhiệt độ quá cao và áp suất cực lớn đã khiến các thiết bị đo bị hỏng hết, phải khoan như… người mù đi đường. Đây là thời điểm anh em cực kỳ sợ và lo lắng. Chỉ riêng chuyện đảm bảo cho dòng khí được khống chế tốt nhất, không phụt lên “vô tổ chức” đã phải giải quyết những vấn đề kỹ thuật cực kỳ phức tạp. Loại mỏ này trên thế giới cũng có ở một số nơi, nhưng chưa ai dám làm vì độ rủi ro quá lớn. Khi Nguyễn Quỳnh Lâm muốn mời các chuyên gia, anh phải thông qua các mối quan hệ với nhiều bạn bè trên thế giới, đề nghị họ tìm người hộ mình và mời đến phỏng vấn. Những thông tin về loại mỏ này hồi Quỳnh Lâm học ở trường bên Nga cũng không có. Nghe nói ở ngoài khơi Malaysia và Australia cũng có loại mỏ tương tự như thế này. Nhưng nói chung, đây là loại mỏ không phổ thông. Vì phải khoan trong điều kiện áp suất, nhiệt độ cực cao nên tất cả mọi thiết bị đều phải được chế tạo đặc biệt.

Để bảo đảm an toàn, Nguyễn Quỳnh Lâm và cộng sự đã nghiên cứu rất kỹ về các sự cố mà trong thời gian thăm dò BP đã vấp phải và từ đó có đơn đặt hàng chế tạo thiết bị cho các công ty sừng sỏ nhất trên thế giới.

Một trong những sáng tạo nhất của anh em Ban Quản lý Dự án Biển Đông là quyết định đặt hàng với PV Drilling chế tạo giàn tiếp trợ nửa nổi nửa chìm (TAD) và đã đầu tư 200 triệu USD cho chế tạo giàn này. Giàn PV Drilling V là loại giàn tiếp trợ và khi làm xong ở mỏ này thì lại được kéo đi mỏ khác. Khi khoan thăm dò ở độ sâu 140m, nếu với phương pháp dựng giàn khoan cố định, mỗi giếng khoan tốn khoảng… 200 triệu USD, còn nếu dùng giàn tiếp trợ thì mỗi giếng chỉ hết 50 đến 70 triệu USD.

Khi Nguyễn Quỳnh Lâm và các cộng sự đề xuất phương án làm giàn tiếp trợ nửa nổi nửa chìm, ngay lập tức Hội đồng Thành viên và Ban Tổng Giám đốc hết sức ủng hộ. Phía PV Drilling thì khỏi phải nói là quyết tâm đến mức như thế nào…

(Trích phóng sự Kỳ tích mới ở Biển Đông - 2013)

Kể từ khi khai thác thương mại dòng khí đầu tiên (6/9/2013), sản lượng khai thác tại cụm mỏ Hải Thạch - Mộc Tinh liên tục đạt trung bình 2 tỷ mét khối và 2,5 triệu thùng condensate mỗi năm, góp phần bổ sung quan trọng cung cấp cho các nhà máy điện - đạm tại khu vực Đông Nam Bộ trong bối cảnh sản lượng khai thác khí bị suy giảm nghiêm trọng, góp phần đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia.

Đến nay, BIENDONG POC đã khai thác an toàn, liên tục gần 17 tỷ m3 khí và hơn 25 triệu thùng condensate. Tổng doanh thu lũy kế của dự án tính đến 31/3/2023 đạt hơn 4,66 tỷ USD trên tổng vốn đầu tư và chi phí vận hành là 3,70 tỷ USD, đóng góp đáng kể cho ngân sách Nhà nước.

https://petrovietnam.petrotimes.vn/nguyen-quynh-lam-va-ky-tich-bien-dong-01-686022.html

Nguyễn Như Phong / Petrotimes