Theo Th.s Nguyễn Hữu Thiện - chuyên gia nghiên cứu độc lập sinh thái đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), sụt lún, sạt lở đang đe dọa sự tồn tại của châu thổ Cửu Long. Nếu không được kiểm soát có thể khiến đồng bằng chìm xuống dưới mực nước biển, làm tăng cấp số nhân những thách thức, chi phí bảo vệ đất đai khỏi tình trạng ngập lụt thường xuyên.
Tại ĐBSCL, nước dưới đất trong các tầng chứa nước hầu hết đối mặt với tình trạng hạ thấp sâu và xâm nhập mặn vào mùa khô. Ở nhiều địa phương, mực nước dưới đất có tốc độ hạ thấp mạnh từ 0,3-0,5m/năm như: TP Cần Thơ; các tỉnh Long An, Tiền Giang, Sóc Trăng, Trà Vinh, Vĩnh Long, Cà Mau... Thậm chí, một số địa phương tốc độ hạ thấp đến 0,55m/năm như: thị trấn Tân Trụ, huyện Tân Trụ (Long An); 0,92m/năm như thị trấn Lai Vung, huyện Lai Vung (Đồng Tháp). Một số khu vực có xu hướng gia tăng xâm nhập mặn cả về diện tích và nồng độ, như: Long An, Trà Vinh, Hậu Giang, Cà Mau. Không chỉ tồn tại những nguy cơ suy giảm mực nước, ô nhiễm và nhiễm mặn nước dưới đất, ở một số khu vực hiện đối diện sụt lún, hạ thấp bề mặt địa hình…
Theo Bộ TN&MT, ĐBSCL đang sụt lún 1cm/năm, với tốc độ trung bình lên tới 5,7cm/năm (số liệu từ 2005-2017) tại một số địa điểm. Hai tác nhân chính được xác định gây ra sụt lún quy mô lớn ở cấp khu vực là quá trình nén tự nhiên và khai thác nước ngầm quá mức. Để quản lý khai thác nước ngầm, Chính phủ ban hành Nghị định 167/2018/NĐ-CP (NĐ167), quy định việc hạn chế khai thác nước dưới đất, Bộ TN&MT đang thúc đẩy các địa phương thực hiện, mục tiêu hoàn thành trong tháng 2/2022. NĐ167 yêu cầu từng địa phương xác lập nơi nào được khai thác nước ngầm với số lượng bao nhiêu.
Theo các chuyên gia, việc phân vùng là một biện pháp tiềm năng để quản trị sụt lún, nhưng không giải quyết được sụt lún của vùng. Th.s Nguyễn Hữu Thiện cho biết, NĐ167 là phân vùng theo chiều ngang, không theo chiều sâu. Có đến 7 tầng chứa nước ngầm theo chiều sâu, việc phân vùng theo chiều ngang vẫn có thể đè 1 tầng nước nào đó và bỏ qua tính phức tạp của các tầng chứa nước. Nếu các địa phương có cùng tầng nước ngầm, dù hạn chế khai thác, nhưng tỉnh kế bên khai thác vẫn sụt lún như thường.
Hiện nay, dữ liệu về sụt lún và khai thác nước ngầm chỉ có ở cấp vùng, chưa có dữ liệu riêng từng địa phương. Việc thiếu tương quan về khối lượng khai thác nước ngầm và tốc độ sụt lún, nên không biết khai thác nước ngầm bao nhiêu thì gây sụt lún. Nhiều giếng khoan nhỏ trong vùng không đăng ký với địa phương nên khó quản lý. Mặt khác, nước mặt sông ngòi, kênh rạch bị ô nhiễm do quá trình sản xuất nông nghiệp. Lấy nước sông xử lý thành nước sạch cấp cho dân chi phí lớn, giá nước sẽ rất cao. Trong khi nước dưới đất chất lượng tốt hơn, chi phí xử lý rẻ hơn.
Quản trị nước ngầm để quản lý sụt lún đang trở nên cấp bách ở ĐBSCL. Đại sứ quán Hà Lan tại Việt Nam và Bộ TN&MT đã hợp tác thực hiện Dự án “Quản trị sụt lún và quản lý nước ngầm ở ĐBSCL” thời gian 15 tháng (2020-2021). Dự án là sự tiếp nối những nỗ lực của dự án hợp tác nghiên cứu Hà Lan - Việt Nam Rise and Fall (tài trợ bởi Đại học Utrecht, Deltares, Trường Đại học Cần Thơ và các đối tác Việt Nam).
Dự án chọn TP Cần Thơ, các tỉnh Bến Tre, Sóc Trăng, Kiên Giang để thực hiện thí điểm. Công ty tư vấn Arcadis là tư vấn chính cho dự án, liên danh với Tổ chức bảo tồn thiên nhiên quốc tế, Trường Đại học Cần Thơ và Trung tâm quản lý nước và biến đổi khí hậu (WACC - Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh), cùng các chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực này ở ĐBSCL. Mục tiêu của dự án nhằm hỗ trợ các địa phương xây dựng chính sách quản trị nhằm giải quyết những thách thức sụt lún đất và quản lý nước ngầm. Dự án đưa ra 4 thông điệp chính là: Sụt lún đang là vấn đề cấp bách ở ĐBSCL; sụt lún gây ra thiệt hại cho cơ sở hạ tầng, mất đất và gia tăng lũ lụt; khai thác nước ngầm quá mức là nguyên nhân chính gây sụt lún; để tránh thiệt hại trên diện rộng, việc khai thác nước ngầm cần phải được giảm xuống mức bền vững.
Theo Th.s Nguyễn Hữu Thiện, bất cập còn nằm ở quy định cấp phép khai thác nước ngầm. Tỉnh cấp phép khai thác công suất dưới 3.000m3/ngày đêm, còn trên 3.000m3/ngày đêm do Bộ TN&MT cấp phép, trong khi không có sự phối hợp giữa Bộ và địa phương. Th.s Nguyễn Hữu Thiện dẫn chứng, như TP Cần Thơ có kế hoạch cắt giảm 50% công suất khai thác nước ngầm cho giai đoạn tới, nhưng không thể thu hồi giấy phép do Bộ TN&MT cấp. Đề xuất Bộ thu hồi thì Bộ trả lời chưa có cơ sở để thu hồi vì địa phương chưa quy hoạch quản lý tài nguyên nước, mà quy hoạch này phải chờ “Quy hoạch tích hợp ĐBSCL”...
Theo các chuyên gia, quản lý khai thác nước ngầm cần kế hoạch tổng thể dùng chung cho cả vùng. Các địa phương có cùng tầng chứa nước bị ảnh hưởng lẫn nhau trong khai thác thì cần liên kết liên tỉnh và Bộ TN&MT đứng ra điều phối. Để hợp tác cần có cơ chế chia sẻ thông tin giữa các địa phương và cần đối thoại giữa Bộ và Sở TN&MT địa phương. Chi phí xử lý nước mặt sông ngòi cho sinh hoạt, sản xuất rẻ hơn nước ngầm sẽ hạn chế khai thác nước ngầm.
Đức Văn – H. Huỳnh
Việt Nam dự kiến vay 2 tỷ USD phát triển Đồng bằng sông Cửu Long |
Đồng bằng sông Cửu Long "đói" lũ |