Lò Sũ, Lò Đúc, Lò Rèn, Hỏa Lò là những cái tên quen thuộc với người dân Hà Nội, tuy nhiên không phải ai cũng biết ý nghĩa, nguồn gốc những tên phố này.

Giữa lòng Thủ đô hiện đại, những con phố mang tên “Lò” như Hỏa Lò, Lò Rèn, Lò Đúc, Lò Sũ có từ thời xưa khiến nhiều người tự hỏi, những cái tên này có ý nghĩa gì và vì sao phố lại được đặt tên như vậy.

Lò Sũ là gì?

Nằm ở phường Lý Thái Tổ, quận Hoàn Kiếm, phố Lò Sũ dài khoảng 316 mét, nối từ đường Trần Quang Khải qua các ngã tư Hàng Vôi – Hàng Tre, Lý Thái Tổ – Nguyễn Hữu Huân, cắt ngang phố Hàng Dầu và kết thúc tại ngã ba Lò Sũ – Đinh Tiên Hoàng, ngay gần đền Bà Kiệu bên bờ đông Hồ Gươm.

Nghe tên Lò Sũ, nhiều người đoán rằng con phố này từng có nghề thủ công liên quan đến một loại vật liệu đặc biệt nào đó. Ít ai biết rằng chữ “sũ” trong “Lò Sũ” thực ra là từ Hán – Việt, mang nghĩa là quan tài.

Nhiều người chưa biết từ

Nhiều người chưa biết từ "sũ" trong tên phố Lò Sũ có nghĩa là quan tài. (Ảnh: Naver)

Cư dân ở phố Lò Sũ xưa chủ yếu là người đến từ các làng nghề mộc như Liễu Viên và Phương Dực (xã Thường Tín, Hà Nội ngày nay) lên kinh thành lập nghiệp. Với tay nghề khéo léo, họ mở lò chuyên đóng và buôn bán quan tài, biến nơi đây thành một địa chỉ quen thuộc trong ngành tang lễ của đất Thăng Long xưa.

Thời Pháp thuộc, con phố này mang tên Rue Puyane. Sau năm 1945, phố đổi tên thành Nguyễn Trãi, đến năm 1949 lấy lại tên Lò Sũ. Nghề hàng sũ trên phố này từ lâu đã biến mất, chỉ còn lại tên gọi, cái tên vừa lạ tai, vừa gợi nhớ một nghề đặc biệt trong dòng chảy lịch sử đô thị Hà Nội.

Vì sao có tên phố Lò Đúc?

Phố Lò Đúc, phường Hai Bà Trưng dài khoảng 1,2 km, nối từ ngã tư Hàm Long đến ô Đông Mác. Khi xưa con phố này không dài đến vậy.

Cuối thế kỷ 18, một nhóm người dân làng Đức Bác, xứ Kinh Bắc đến lập nghiệp tại khu vực này. Họ mang theo nghề đúc đồng truyền thống, lập xưởng và sinh sống ổn định. Cũng từ đó, đoạn đường kéo dài từ đầu phố Hàm Long tới ngã tư phố Nguyễn Công Trứ được dân gian gọi là "phố Lò Đúc" vừa để chỉ đặc trưng ngành nghề, vừa như một mốc nhận diện cộng đồng cư dân ở đây.

Dấu tích của phường đúc này là chùa Tổ Ông tọa lạc ở ngõ 79 phố Lò Đúc, được dân làng Đức Bác lập để thờ thiền sư Nguyễn Minh Không, ông tổ nghề đúc đồng.

 

Nửa sau thế kỷ 19, sau khi chiếm thành Hà Nội, người Pháp xây dựng các doanh trại hậu cần để phục vụ binh lính, và lập doanh trại lớn chuyên nuôi bò ở đoạn tiếp theo của phố Lò Đúc - từ ngã tư Nguyễn Công Trứ đến ngã ba Cảm Hội. Người dân gọi đoạn này là Cây đa Nhà Bò. Đoạn sau của phố Lò Đúc ngày nay (từ ngã ba Cảm Hội đến ô Đông Mác) được gọi là phố Lò Lợn vì có lò mổ lợn.

Năm 1896, Toàn quyền Đông Dương Armand Rousseau chết lúc đang tại chức, người Pháp hợp nhất 3 đoạn phố từ ngã tư Hàm Long đến ô Đông Mác, đặt tên là Đại lộ Arman Rousseau. Năm 1946, trong đợt đổi tên đường phố tại Hà Nội, tên gọi Lò Đúc được khôi phục cho toàn tuyến phố.

Phố Lò Đúc vào năm 1951. (Ảnh: Binh Do)

Phố Lò Đúc vào năm 1951. (Ảnh: Binh Do)

Lịch sử phố Hỏa Lò

Phố Hỏa Lò dài 164m, rộng 10m, đi từ phố Hai Bà Trưng đến phố Lý Thường Kiệt, chạy qua cửa khu di tích nhà tù Hỏa Lò và Tòa án Tối cao. Số nhà duy nhất trên trên con phố này là số 1 Hỏa Lò, nơi xưa kia là nhà tù Hỏa Lò, được người dân nhắc tới bằng câu: "Nhà không số, phố Hỏa Lò".

Tên Hỏa Lò ban đầu không liên quan đến tù ngục. Khu vực này xưa kia thuộc thôn Phụ Khánh, chuyên làm các loại ấm đất, siêu đất và các loại lò đun bằng đất (nung và để mộc) đem bán khắp kinh kỳ. Vì vậy, dân gian gọi là làng Hỏa Lò, tức nơi sản xuất lò đun.

Năm 1895 thực dân Pháp đuổi toàn bộ dân làng này đi, lấy đất xây tòa án và nhà tù. Do công trình này nằm trên đất làng Hỏa Lò nên dân chúng gọi đó là “nhà tù Hỏa Lò”. Thực dân Pháp xây nhà tù trung ương tại đây, gọi là Maison Centrale, dùng để giam giữ các chiến sỹ yêu nước. Vì thế trong ký ức dân gian, tên phố Hỏa Lò gắn liền với nhà tù nhiều hơn là nghề thủ công gốc.

Suốt thời Pháp thuộc, đây vừa là nhà tù, vừa là nơi tạm giam người ở khắp các tỉnh thuộc xứ Bắc Kỳ. Ngày nay, Hỏa Lò là điểm tham quan và di tích lịch sử nổi tiếng. Cái tên của nó là ký ức kép, vừa nhắc về một làng nghề đất nung, vừa là biểu tượng của sự kiên cường của các chiến sỹ cách mạng Việt Nam.

Toàn cảnh nhà tù Hỏa Lò (1896-1954). (Ảnh: QĐND)

Toàn cảnh nhà tù Hỏa Lò (1896-1954). (Ảnh: QĐND)

Lịch sử phố Lò Rèn

Phố Lò Rèn chỉ dài 130m, đi từ ngã tư Hàng Cá – Thuốc Bắc, cắt ngang phố Hàng Đồng rồi kết thúc tại ngã ba Hàng Gà, phường Hoàn Kiếm, Hà Nội. Sách “Kiến văn tiểu lục” của Lê Quý Đôn (1726 – 1784) miêu tả dân cư đến sống ở khu vực này cạnh Đông Thành thị, khu chợ lớn nhất phía đông Hoàng thành.

Đến năm 1822, nơi đây mới dần hình thành thôn xóm chuyên rèn nông cụ, đồ gia dụng và cả vũ khí thô sơ. Phố ban đầu được gọi là Hàng Bừa.

Đến cuối thế kỷ XIX, người Pháp mở mang phố xá nên nguyên vật liệu bằng sắt rất thông dụng, suốt dãy phố nhà nào cũng có bễ lò rèn. Cái tên phố Lò Rèn bắt đầu xuất hiện từ đây. Về sau, thực dân Pháp đổi tên phố thành Rue des Forgerons (Phố Thợ Rèn).

Năm 1945, con phố này lấy lại tên Lò Rèn. Khoảng năm 1948 -1949, chiếc xích-lô đầu tiên của Hà Nội cũng được làm tại đây.

https://vtcnews.vn/ten-pho-lo-su-lo-duc-hoa-lo-o-ha-noi-co-y-nghia-gi-ar956852.html

Hoàng Hà / VTC News