Quốc kỳ, Quốc ca, Quốc huy với đóng góp lớn của Nguyễn Hữu Tiến, Bùi Trang Chước, Văn Cao là những biểu tượng mang hồn nước, kết tinh ý chí xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.

Năm 2025, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tổ chức nhiều ngày lễ lớn của đất nước, của dân tộc. Đặc biệt nhất là Lễ kỷ niệm trọng thể 80 năm ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là CHXHCN Việt Nam. Một chính thể mới ra đời, việc cần làm đầu tiên là phải sáng tạo và công bố trước quốc dân đồng bào và cộng đồng quốc tế về Quốc kỳ, Quốc ca, Quốc huy của mình.

Đó là những biểu tượng “mang hồn nước, hình nước”, thể hiện hàm súc, cao đẹp ý chí và khát vọng độc lập, tự do, hạnh phúc của toàn thể Nhân dân.

Về Quốc kỳ Việt Nam

Bản Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên đọc tại Quảng trường Ba Đình lịch sử chiều 2/9 năm 1945 khẳng định: “Chúng tôi, Chính phủ Lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng: Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.

Những người góp phần tạc nên hình nước, hồn nước - 1

Khát vọng “tự do, độc lập” ấy đã bùng cháy ngay khi Đảng Cộng sản Việt Nam vừa mới ra đời. Dưới cờ đỏ búa liềm của Đảng, Nhân dân ta đã đứng dậy trong cao trào cách mạng năm 1930-1931 mà đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh đầy máu lửa, bi hùng; tiếp tục nung nấu trong các cuộc đấu tranh đòi dân chủ, dân sinh 1936-1939; sục sôi trong khởi nghĩa Bắc Sơn và khởi nghĩa Nam Kỳ năm 1940.

Ở Nam Kỳ lúc đó, lá cờ đỏ sao vàng năm cánh được cho là do đồng chí Nguyễn Hữu Tiến phác thảo ban đầu (qua gợi ý của đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai) và sự góp ý của nhiều đồng chí trong xứ ủy Nam Kỳ, lần đầu xuất hiện trên báo Tiến Lên cùng bài thơ do chính ông sáng tác: “Hỡi những ai máu đỏ da vàng/ Hãy chiến đấu dưới cờ thiêng Tổ quốc/ Nền cờ thắm máu đào vì nước/ Sao vàng tươi da của giống nòi/ Đứng lên mau hồn nước gọi ta rồi/ Hỡi sỹ - nông - công - thương - binh/ Đoàn kết lại như sao vàng năm cánh…”.

Khởi nghĩa Nam Kỳ bị thực dân Pháp dìm trong biển máu, Nguyễn Hữu Tiến bị bắt, bị xử bắn vào ngày 28/8/1941. Trước khi ra pháp trường, ông đã để lại những câu thơ đầy khí phách, trong đó, cũng như bài thơ trước, hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng luôn kiêu hãnh tung bay: “Vĩnh biệt hôm nay có mấy lời/ Nhắn cùng đồng chí khắp nơi nơi/ Tinh thần để lại cho non nước/ Thù hận ghi sâu giữa đất trời/ Án chém Hà Nam đà rũ sạch/ Khổ sai Côn Đảo đã qua rồi/ Anh em đi trọn con đường nhé/ Cờ đỏ sao vàng sáng tương lai".

Năm 1941, Chương trình công tác của Việt Minh xác định: “Sau khi đánh đuổi được đế quốc Pháp, Nhật, sẽ thành lập một chính phủ nhân dân của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, lấy lá cờ đỏ sao vàng năm cánh làm lá cờ toàn quốc”. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, ngày 5/9/1945, Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra Sắc lệnh số 5-SL về việc bãi bỏ cờ quẻ ly của chế độ cũ và ấn định Quốc kỳ Việt Nam là Cờ đỏ sao vàng năm cánh.

Tại kỳ họp thứ hai Quốc hội Khóa I, ngày 31/10/1946, khi trả lời chất vấn của một vài đại biểu Quốc hội nêu vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Lá cờ đỏ sao vàng đã nhuộm bao nhiêu máu chiến sĩ Việt Nam ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, đã đi từ Á sang Âu, lại từ Âu sang Á, tới đâu cũng được chào kính cẩn, bây giờ trừ khi cả 25 triệu đồng bào còn ra không ai có quyền gì mà đòi thay đổi nó".

Ngày 2/7/1976, Quốc hội Việt Nam thống nhất đã thông qua Nghị quyết, ghi rõ: “Quốc kỳ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh”.

Về Quốc huy Việt Nam

Quốc huy của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được Quốc hội Việt Nam khóa I, kỳ họp Quốc hội thứ VI (từ 15/9 tới 20/9/1955), phê chuẩn. Mẫu quốc huy do họa sĩ Bùi Trang Chước vẽ và họa sĩ Trần Văn Cẩn tham gia chỉnh sửa.

Quốc huy Việt Nam.

Quốc huy Việt Nam.

Ngày 14/1/1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh 254-SL về việc ban bố mẫu Quốc huy của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, kèm theo đó là Phụ lục số 1, 2 in 2 mẫu vẽ quốc huy (có tô màu và không tô màu). Trong Di thư của mình, họa sĩ Bùi Trang Chước viết: “Phác thảo mẫu Quốc huy Việt Nam cuối cùng của tôi hồi đó là trình bày theo hình tròn, hai bên chung quanh là các bông lúa Việt Nam, có mấy bông rủ vào bên trong ôm cái đe ở giữa phía dưới, tượng trưng cho công nông nghiệp, dưới đe là dải lụa sau này có chữ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, hai đầu dải lụa quấn hai bên bông lúa từ dưới lên mỗi bên hai đoạn.

Ở giữa phía trên trong nền là ngôi sao vàng trên nền đỏ. Dưới ngôi sao gần giữa trung tâm nền là vòng cung mặt trời, có tia chiếu sáng chung quanh, gợi lên hình ảnh của buổi bình minh. Toàn bộ Quốc huy tôi dùng hai màu vàng và đỏ…

Các mẫu này sau đó trình Bác Hồ, được Bác chọn và góp ý: Hình tượng cái đe là thủ công nghiệp cá thể, nên dùng hình tượng tượng trưng cho nền công nghiệp hiện đại”. Hình tượng cái đe sau đó được thay bằng bánh xe công nghiệp.

 

Tiến quân ca - Quốc ca Việt Nam

Tác giả Tiến quân ca - nhạc sỹ Văn Cao bắt đầu sự nghiệp âm nhạc năm 16 tuổi với ca khúc “Buồn tàn thu”, tiếp đó là các ca khúc lãng mạn, trữ tình “Bến xuân”, “Suối mơ”, “Thiên thai”, “Trương Chi”, “Thu cô liêu”, “Cung đàn xưa”… Năm 17 tuổi, ông viết các bài thơ mang âm hưởng hiện thực phê phán “Một đêm đàn lạnh trên sông Huế”, “Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc”…

Ông còn viết một số tác phẩm thơ, văn, kịch ngắn đăng ở Tiểu thuyết thứ Bảy.

Về hội họa, năm 19 tuổi, Văn Cao theo học dự thính Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, năm 20 tuổi ông đã có các bức tranh gây sự chú ý của giới mỹ thuật “Cô gái dậy thì”, “Sám hối”, “Nửa đêm”, “Thái Hà ấp đêm mưa”, “Cuộc khiêu vũ của những người tự tử” (Le Bal aux suicides).

Năm 21 tuổi - 1944, Văn Cao tham gia Việt Minh và Hội Văn hóa Cứu quốc, ông viết bài hát lừng danh “Tiến quân ca”. Bài hát đặc biệt xuất sắc này được viết vào mùa đông năm 1944 trên căn gác nhỏ nhà số 45 phố Nguyễn Thượng Hiền, Hà Nội và được in trên báo Độc lập.

Để in báo, tác giả tự khắc bản nhạc lên phiến đá và ông không biết rằng, chính tác phẩm này đã khắc tên tuổi của ông vào lịch sử dân tộc khi trở thành Quốc ca Việt Nam: “Đoàn quân Việt Nam đi/ Chung lòng cứu quốc/ Bước chân rộn vang trên đường gập ghềnh xa/ Cờ in máu chiến thắng mang hồn nước/ Súng ngoài xa chen khúc quân hành ca… Đoàn quân Việt Nam đi, sao vàng phấp phới…”.

Ngày 19/8/1945, tại cuộc mít tinh rầm rộ trên quảng trường Nhà hát Lớn Hà Nội, dàn đồng ca Thiếu niên Tiền phong đã hát vang “Tiến quân ca” dưới hàng trăm lá cờ đỏ sao vàng tung bay kiêu hãnh… Hàng chục ngàn người cùng cất vang bài ca mang hồn sông núi. Ngày 2/9/1945, “Tiến quân ca” vang lên hùng tráng trong Lễ Tuyên ngôn Độc lập tại Quảng trường Ba Đình.

Bài hát ấy ngay lập tức được nhiều người yêu thích, đi theo chân bộ đội, nông dân, công nhân, trí thức, công thương trên các chặng đường cách mạng bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Tiến quân ca hùng tráng vang lên trong concert

Tiến quân ca hùng tráng vang lên trong concert "Tổ quốc trong tim". (Ảnh: SVVN)

Từ năm 1945 trở đi, Nam Cao viết “Bắc Sơn”, rồi các ca khúc, hành khúc như là sự tiên tri kỳ lạ tuyệt vời: “Hải quân Việt Nam”, “Không quân Việt Nam”, “Công nhân Việt Nam”, “Chiến sĩ Việt Nam”, “Gò Đống Đa”, “Thăng Long hành khúc ca”…tiếp đó là “Làng tôi”, “Ngày mùa”, “Tiến về Hà Nội”, đặc biệt là ca khúc “Ca ngợi Hồ Chủ tịch” và “Trường ca Sông Lô”, “Mùa xuân đầu tiên”…

Về hội họa, Văn Cao sáng tác hàng trăm tác phẩm tranh, kí họa, đồ họa, đơn cử như “Dân công miền núi”, “Chợ vùng cao”, “Lớn lên trong kháng chiến”, “Người Mông dắt ngựa”, “Cá”, “Người đàn bà dài vú nuôi con”, “Chân dung bà Băng”, “Chân dung Đặng Thai Mai”, “Cổng làng”, “Phố Nguyễn Du”, “Ngựa”, “Cây đàn đỏ”, “Cô gái và đàn dương cầm”…

Thơ của ông là “Ba biến khúc tuổi 65”, “Thời gian”, “Phố Phái”, “Những bó hoa”… Nhiều bài thơ được tập hợp trong tập “Lá” và “Tuyển tập thơ Văn Cao”.

Nhận định về sự nghiệp văn nghệ đặc sắc của Văn Cao, nhiều người ca ngợi ông là nghệ sĩ đa tài, thích "lãng du" qua những “miền” nghệ thuật khác nhau về âm nhạc, hội họa, thơ ca.

Dù không gắn bó liên tục và dài lâu với một loại hình nào, nhưng ở cả ba "miền" ấy, ông đều lưu dấu rất nhiều, rất ấn tượng sáng tạo mang tính khai phá - mở lối cho mình và cho những người cùng thời hoặc đến sau. Cụ thể và hiển nhiên nhất là thể loại tình ca, hùng ca, trường ca trong âm nhạc và trường ca trong thơ Việt Nam hiện đại; là sự tiệm cận với phong cách hội họa lập thể, trừu tượng, siêu thực, ấn tượng. Nhưng trước hết và trên hết, trong nhạc, họa và thơ ông, văn hóa Việt Nam, tâm hồn người Việt Nam, khát vọng Việt Nam luôn đậm đà, da diết, quán xuyết và thống nhất.

Nước non Việt Nam ta vững bền

Ba tượng đài nghệ thuật gắn liền với nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa 80 năm trước cho đến sau này là nước CHXHCN Việt Nam - Quốc kỳ, Quốc ca, Quốc huy có công đóng góp quý báu và to lớn của Nguyễn Hữu Tiến, Bùi Trang Chước, Văn Cao. Đó là những biểu tượng mang hồn đất nước, kết tinh ý chí, khát vọng, lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của toàn Đảng, toàn Dân, toàn Quân ta.

Mỗi người Việt Nam, dù sống ở trong nước hay ở nước ngoài, khi nhìn thấy, nghe thấy Quốc kỳ, Quốc ca, Quốc huy Việt Nam đều rưng rưng xúc động, tự hào, kiêu hãnh.

“Đoàn quân Việt Nam đi, chung lòng cứu quốc/ Bước chân dồn vang trên đường gập ghềnh xa/ Cờ in máu chiến thắng mang hồn nước/ Súng ngoài xa chen khúc quân hành ca/… Vì nhân dân chiến đấu không ngừng/ Tiến mau ra sa trường/ Tiến lên, cùng tiến lên/ Nước non Việt Nam ta vững bền”.

https://vtcnews.vn/nhung-nguoi-gop-phan-tac-nen-hinh-nuoc-hon-nuoc-ar963163.html

PGS.TS Nguyễn Thế Kỷ / VTC News